Kỉ nguyên công nghệ số ra đời thúc đẩy sự phát triển không ngừng của sự sáng tạo. Con người không giới hạn chỉ bởi giấy vẽ, màu vẽ đơn thuần , giờ đây người ta tìm đến nghệ thuật thị giác (video art) bên cạnh nghệ thuật không gian, nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật tĩnh… Dù ở bất kì môn nghệ thuật nào thì cốt lõi của nghệ thuật chính là sự sáng tạo của con người thông qua bất kì hình thức thể hiện nào.
1. Video art được hiểu như thế nào?
Đó là một loại hình nghệ thuật có liên quan đến sự chuyển động hình ảnh trong môi trường chứa đựng yếu tố: thị giác và âm thanh, ra đời vào thập kỉ 60 và đầu những năm 70. Loại hình nghệ thuật này có thể có nhiều hình thức bao gồm phát sóng, tác phẩm được xuất bản trực tuyến, băng hình trong các bảo tàng và triển lãm cũng như các buổi diễn kết hợp tivi, màn hình được chiếu trực tiếp hay thu lại hình ảnh.
2. Video art được chia thành bao nhiêu nhóm thực hành cơ bản ?
Nhóm 1: Một cách đơn giản là sử dụng máy quay trong một không gian nhất định để quay hình, sau đó chọn ra những “hành vi” “ý niệm” hay “ hành động”.
Nhóm 2: Sử dụng các phương tiện: băng thu thanh, máy quay và màn hình.
Nhóm 3: Sử dụng máy quay cầm tay tua lại các khoảnh khắc mang tính chất chính trị hay sư phạm trong đó. Loại hình video ở nhóm hai này gây được sự ảnh hưởng nhất định vào những năm 80, 90 trước đây.
Nhóm 4: Không còn đơn thuần là máy quay, tác giả sẽ sử dụng thêm yếu tố tạo hình là “màn hình” nhằm đưa ra một môi trường cơ bản cho video, phong cách sắp đặt hay tác phẩm điêu khắc.
Nhóm 5: Ứng dụng một đoạn video vào phần trình diễn, ngoài ra video art sử dụng trong truyền thông thực tế.
Nhóm 6: Khi máy tính ra đời, đó đã là một phát minh vĩ đại của con người, giờ đây computer được sử dụng là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho video art, nhóm này cũng áp dụng cả các công nghệ tiên tiến thời bấy giờ để thõa mãn thị giác con người theo cách hoàn hảo hơn cũng như thúc đẩy video art lên một tầm mới.
3. Một số nghệ sĩ đặt nền móng video art
Video nghệ thuật không được sử dụng các diễn viên, có thể không có cuộc đối thoại, có thể không có câu chuyện hay cốt truyện nào rõ ràng, hoặc tuân thủ bất kỳ nguyên tắc nào khác thường xác định thông qua hình ảnh chuyển động . Sự khác biệt này cũng phân biệt video nghệ thuật từ các thể loại phụ của rạp chiếu phim với các loại hình phim ngắn hay thử nghiệm…
Nam Jun Paik
Là một người nghệ sĩ Mĩ gốc Hàn quốc, ông sinh 20/7/1932 mất ngày 29/2/2006. Ông đã làm việc với rất nhiều loại hình truyền thông và coi như là một trong những “tâm hồn lớn” sáng tạo nên video art. Trong những năm 1960 ông cho ra đời dòng chảy nghệ thuật này bằng cách đặt một thanh nam châm lớn trên truyền hình. Ông sử dụng một ống tia cực âm cùng tác động để tạo sự mất cân đối giữa các màu sắc và hình ảnh Nixon bị biến dạng.
Ông đã nhận được công nhận tài năng từ rất sớm vào năm 1974 với “Electronic super highway” vào tác phẩm của mình khi ứng dụng vào thông tin liên lạc số.
Wolf Vostel
Wolf Vostell sinh 14 tháng 10 năm 1932 – mất ngày 3 tháng 4 năm 1998 là một họa sĩ và điêu khắc Đức, được coi là một trong những người đầu tiên sử dụng video nghệ thuật và nghệ thuật lắp đặt. Các kỹ thuật như blurring và Dé-collage là đặc trưng của tác phẩm của ông, như là nhúng các vật thể trong bê tông và sử dụng các chuỗi truyền hình trong các tác phẩm của ông.
Vào năm 1986, Wolf Vostel thực hiện “la chamber noire- căn phòng đen ” trong bộ sưu tập Berlinische tại bảo tàng Berlin, với sự sắp đặt, tập hợp nhiều dụng cụ và máy thu hình, lần đầu tiên tác phẩm với hình ảnh kĩ thuật số cùng phương tiện nghệ thuật, được giới thiệu tại triển lãm Parnass ở Wuppertal vào năm 1963 và nhiều tác phẩm của ông cũng được trưng bày tại triển lãm Smolin tại New York và một số nơi trên thế giới.
Kết luận: Nghệ thuật video đã trở thành biểu tượng của nghiên cứu nghệ thuật của những năm 1980, cho đến ngày nay các máy ảnh và chỉnh sửa thiết bị di động đã trở thành công cụ tiếp cận với một đối tượng rộng hơn trong nghệ thuật thị giác.
Nguồn ảnh: Dailynews
Bài viết có tham khảo : The art of electronic age, Thame and Hudson, dịch giả: Như Huy